Lưu trữ Regina Gavin Williams – Hướng nghiệp Sông An https://huongnghiepsongan.com/tag/regina-gavin-williams/ Cứ đi để lối thành đường Tue, 22 Aug 2023 15:40:18 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.6.2 https://huongnghiepsongan.com/wp-content/uploads/2019/12/cropped-song-an-logo-32x32.jpg Lưu trữ Regina Gavin Williams – Hướng nghiệp Sông An https://huongnghiepsongan.com/tag/regina-gavin-williams/ 32 32 Bảng đánh giá độ sẵn sàng đi học, đi làm cho Thanh thiếu niên ở các trung tâm bảo trợ https://huongnghiepsongan.com/bang-danh-gia-do-san-sang-di-hoc-di-lam-cho-thanh-thieu-nien-o-cac-trung-tam-bao-tro/ Fri, 24 Dec 2021 04:51:11 +0000 https://huongnghiepsongan.com/?p=10393 Bởi tác giả: Regina Gavin Williams Nhiều thanh thiếu niên trong hệ thống bảo trợ xã hội muốn theo đuổi chương trình giáo dục sau trung học (Kirk, Lewis, Nilsen, & Colvin, 2013). Thật không may, có nhiều thách thức có thể ngăn cản các em đạt được kỳ vọng học tập đó. Thách thức [...]

Bài viết Bảng đánh giá độ sẵn sàng đi học, đi làm cho Thanh thiếu niên ở các trung tâm bảo trợ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Hướng nghiệp Sông An.

]]>
Bởi tác giả: Regina Gavin Williams

Nhiều thanh thiếu niên trong hệ thống bảo trợ xã hội muốn theo đuổi chương trình giáo dục sau trung học (Kirk, Lewis, Nilsen, & Colvin, 2013). Thật không may, có nhiều thách thức có thể ngăn cản các em đạt được kỳ vọng học tập đó. Thách thức này bao gồm khả năng cao các em bị đình chỉ hoặc đuổi học, lưu ban hoặc bỏ học trung học (Unrau, Font, & Rawls, 2012). Thống kê cho thấy 20% thanh niên được bảo trợ cũng sẽ trở thành người vô gia cư sau khi đủ 18 tuổi (National Foster Youth Institute, 2017). Hoặc tòa án có thể đặt các em về ở với người thân, ở các nhà nuôi dưỡng, hoặc các nhà tập thể (Kirk, et al., 2013). Các cách bố trí mang tính lâu dài hơn như nhận con nuôi hoặc để các em đủ lớn ra khỏi chương trình bảo trợ xã hội, xảy ra trong độ tuổi từ 18-20. Số thanh thiếu niên trong hệ thống bảo trợ xã hội cũng không có mặt nhiều ở đại học, với khoảng 10% cựu thanh niên từ chương trình bảo trợ đăng ký học đại học và chỉ 4% có bằng cử nhân (Kirk, et al., 2013).

Các chuyên viên tham vấn đóng vai trò thiết yếu trong mạng lưới hỗ trợ của chương trình bảo trợ cho thanh thiếu niên, và họ có thể giúp thanh thiếu niên nâng cao sự sẵn sàng cho nghề nghiệp và đại học. Williams, Baker và Williams-DeVane (2018) chỉ ra rằng, qua việc hiểu những hoàn cảnh đặc trưng khác nhau mà thanh thiếu niên chương trình bảo trợ gặp phải và mong muốn nâng cao sự sẵn sàng cho nghề nghiệp và đại học của thanh thiếu niên, chuyên viên tham vấn có thể giúp cải thiện tiềm năng tiếp cận với cơ hội giáo dục sau trung học của thanh thiếu niên chương trình được bảo trợ. Ví dụ, Rios và Rocco (2014) đã khuyến nghị rằng các chuyên gia, chẳng hạn như chuyên gia tham vấn học đường, nên được đào tạo về cả các rào cản nội tại và các yếu tố thành công giúp thúc đẩy thành tích giáo dục của thanh niên được bảo trợ. Việc đào tạo này có thể bắt đầu trong các chương trình đào tạo tham vấn. Ngoài ra, những chuyên gia tham vấn cao cấp báo cáo rằng trải nghiệm tiếp xúc với môi trường đa văn hóa nhiều hơn cũng giúp họ gia tăng năng lực tư vấn đa văn hóa (Dickson và Jepson, 2007). Do đó, các sinh viên tham vấn đang có kinh nghiệm thực tế lâm sàng làm việc với thanh niên được bảo trợ có thể mang lại lợi ích chung cho cả hai bên. Cụ thể, các thực tập sinh tham vấn có thể giúp thanh thiếu niên chương trình được bảo trợ bằng các chiến lược nâng cao sự sẵn sàng cho nghề nghiệp và việc học đại học của thanh thiếu niên. Bài viết này sẽ tập trung vào cách các chuyên gia giáo dục hướng nghiệp dạy cho sinh viên của họ cách sử dụng Bảng đánh giá năng lực sẵn sàng đi học và đi làm ở thanh thiếu niên được bảo trợ xã hội (CCRSI; Baker & Parikh Foxx, 2012) để điều chỉnh các can thiệp về sự sẵn sàng cho việc học đại học và nghề nghiệp cho thanh thiếu niên trong chương trình bảo trợ.

Bảng đánh giá độ sẵn sàng đi học và đi làm (CCRSI)

CCRSI là thước đo niềm tin của một cá nhân vào sự sẵn sàng của bản thân để bắt đầu nghiên cứu lộ trình nghề nghiệp và chuẩn bị cho một khởi đầu thành công ở môi trường giáo dục sau trung học. Các mục trong công cụ gợi lên mức độ tự tin của một người đối với một loạt các hành vi được coi là quan trọng để sẵn sàng học đại học và đi làm. Một số mục đặc trưng cho các mục tiêu rộng (ví dụ: “Tôi tin rằng tôi có tiềm năng thành công trong môi trường giáo dục sau trung học phổ thông phù hợp với mình; tôi tự tin có thể sống một cuộc sống tốt đẹp sau 10 năm nữa”). Các mục khác chỉ ra các nội dung cụ thể hơn (ví dụ: “Tôi biết tôi hiểu quy trình đăng ký giáo dục sau trung học phổ thông; tôi biết nhiều cách để trả tiền cho giáo dục sau trung học”). CCRSI bao gồm một mô hình bốn nhân tố đo lường mức độ sẵn sàng cho nghề nghiệp và đại học trong các phạm vi sau:

  • Kiến thức đại học: Đáp ứng những thách thức về thủ tục và tài chính liên quan đến giáo dục sau trung học và nghề nghiệp tương lai.
  • Tính cách tích cực: Sở hữu những tính cách tích cực sẽ nâng cao sự sẵn sàng.
  • Năng lực học tập: Tin tưởng rằng bản thân có các năng lực cần thiết có thể thành công trong tương lai.
  • Tiềm năng đạt được các mục tiêu tương lai: Tin rằng bản thân có tiềm năng thiết lập và đạt được các mục tiêu trong tương lai. (Baker và cộng sự, 2016)

Bản đánh giá bao gồm 14 câu và người trả lời phải chọn một trong năm câu trả lời ở mỗi câu dựa trên thang đo Likert, từ “hoàn toàn đồng ý” đến “hoàn toàn không đồng ý”. Mỗi câu trả lời phải lựa chọn mức độ từ 5 = rất đồng ý đến 1 = rất không đồng ý. Điểm từng mục được cộng lại với nhau để có được tổng điểm. Phạm vi điểm trên thang điểm là 14 (thấp) đến 70 (cao). Việc quản lý CCRSI sẽ giúp các chuyên gia tham vấn đang được đào tạo hướng tới việc điều chỉnh các biện pháp can thiệp giúp nâng cao mức độ tự tin của bản thân để sẵn sàng cho việc học đại học và đi làm của thanh thiếu niên trong chương trình bảo trợ. Trong tài liệu này, các chuyên gia giáo dục nghề nghiệp có thể dạy sinh viên cách sử dụng CCRSI và bốn yếu tố của nó, cũng như huấn luyện họ cách đọc hiểu đánh giá. Sinh viên chuyên ngành tham vấn phải hiểu cách diễn giải kết quả để họ có thể giải thích cặn kẽ cho thân chủ về điểm của từng nhân tố trong bốn nhân tố liên quan, từ đó gợi ý các nội dung cụ thể để thực hiện các can thiệp giúp phát triển sự sẵn sàng học đại học và đi làm.

Nghiên cứu điển hình

Hãy xem xét trường hợp của Janelle, một học sinh trung học 17 tuổi đang được bảo trợ và được Rose, một thực tập sinh tham vấn làm việc trong trung tâm hướng nghiệp tại trường trung học của Janelle, hỗ trợ. Rose đã áp ụng CCRSI cho Janelle, kết quả cuối cùng là 50 trên 70 điểm tổng. Khi nhìn sâu hơn vào kết quả, Janelle đã đạt 16 trên 25 điểm cho yếu tố kiến ​​thức đại học, 14 trên 20 điểm cho yếu tố tính cách tích cực, 11 trên 15 điểm cho yếu tố năng lực học tập và 10 trên 10 điểm về tiềm năng đạt được các mục tiêu trong tương lai. Khi xem xét những kết quả này và nói chuyện với Janelle về những nhu cầu và rào cản mà cô ấy đã trải qua, Rose ưu tiên nâng cao kiến ​​thức đại học cho Janelle như quá trình học sau trung học, khám phá chuyên ngành và cơ hội nghề nghiệp trong tương lai, đồng thời xem xét mức lương cho các nghề nghiệp tiềm năng. Sau đó Rose làm việc với Janelle về yếu tố tính cách tích cực (điểm số thấp thứ 2), nơi họ tập trung vào việc thiết lập mục tiêu và xây dựng niềm tin vào một cuộc sống tốt đẹp trong 10 năm tới. Lĩnh vực thứ ba tập trung vào yếu tố năng lực học tập mà Janelle cần được hỗ trợ nhiều nhất để nâng cao kỹ năng học tập và chiến lược làm bài kiểm tra.

Sử dụng các nghiên cứu điển hình như công việc của Rose với Janelle có thể giúp các nhà giáo dục hướng nghiệp hiểu cách CCRSI được sử dụng trong thực hành lâm sàng với thanh thiếu niên chương trình bảo trợ như thế nào. Sau đó, các nhà giáo dục hướng nghiệp có thể cung cấp thêm các nghiên cứu điển hình khác cho sinh viên chuyên ngành tham vấn thực hành sử dụng CCRSI trước khi trải nghiệm thực tế. Các nhà giáo dục hướng nghiệp được khuyến khích thiết kế các tình huống có thể minh họa sát với những khó khăn mà thanh thiếu niên trong chương trình bảo trợ đang gặp phải để các thực tập sinh tham vấn có thể tìm hiểu những thách thức tiềm ẩn và điều chỉnh các biện pháp can thiệp cho phù hợp. Sử dụng CCRSI như một công cụ đánh giá, các nhà giáo dục hướng nghiệp có thể trang bị cho sinh viên chiến lược mới, giúp họ sẵn sàng cho hành trình đi học và đi làm của các thanh thiếu niên trong chương trình bảo trợ.

— Thông tin tác giả

Tiến sĩ Regina Gavin Williams, NCC, LPC, là Trợ lý Lâm sàng cho Giáo sư trong chương trình Chuyên gia Tham vấn Giáo dục tại đại học Bắc Carolina. Bà đã nhận bằng Tiến sĩ về Tham vấn và Tham vấn Giáo dục từ đại học đại học Bắc Carolina. Tiến sĩ Williams đã làm việc trong các cơ sở giáo dục và sức khỏe tâm thần cộng đồng, công việc gần đây nhất thuộc mảng dịch vụ sinh viên tại khoa Giáo dục thuộc đại học Bắc Carolina, với tư cách là chuyên gia tham vấn chuyên nghiệp, chủ yếu hỗ trợ trẻ em và thanh thiếu niên trong chương trình bảo trợ. Bà là Chủ tịch tiền nhiệm của Hiệp hội Phát triển và Tham vấn đa văn hóa Bắc Carolina (NCAMCD) và từng là Member-at-Large, Quan hệ Chính phủ trong Hội đồng Điều hành Hiệp hội Tham vấn Bắc Carolina (NCCA) nhiệm kỳ 2017 – 2018. Nghiên cứu của tiến sỹ Williams tập trung vào sự sẵn sàng cho nghề nghiệp và đại học và sự tủ chủ khi trưởng thành của thanh thiếu niên quá tuổi chương trình bảo trợ, đào tạo chuyên viên chăm sóc nuôi dưỡng trị liệu, và trợ giúp thanh thiếu niên trong giáo dục sau trung học và ra quyết định nghề nghiệp. Bà cũng tập trung vào việc nâng cao năng lực tư vấn đa văn hóa và công bằng xã hội của các tư vấn viên trong quá trình đào tạo. Bạn có thể liên lạc với tiến sĩ Williams qua rwill233@nccu.edu.

Người dịch:  Ph.Uyên

Biên tập: Truc Le

Nguồn bài viết: https://www.ncda.org/aws/NCDA/pt/sd/news_article/245147/_self/CC_layout_details/false

Photo by Sasint

 

Bài viết Bảng đánh giá độ sẵn sàng đi học, đi làm cho Thanh thiếu niên ở các trung tâm bảo trợ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Hướng nghiệp Sông An.

]]>